Chiến tranh Thái Bình Dương (1941–1944) Richard_Halsey_Best

Các phi công của VB-6 trong tháng 1 năm 1942: Best ngồi ở vị trí thứ 3 từ trái sang.

Vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, Best trên chiếc tàu sân bay Enterprise đang quay trở lại cảng cùng với hầu hết các thành viên khác trong phi đội bay VB-6 thì nhận được tin một số đồng đội của anh khi trinh sát buổi sáng đã bay vào cuộc tấn công của Nhật Bản đến Trân Châu Cảng. Tối hôm đó, ông đã xuất phát bay trong cuộc tấn công đầu tiên của chiếc Enterprise khi điều khiển một trong 6 chiếc Douglas SBD Dauntless (SBD) mang theo thiết bị sinh khói. Nhóm của ông được giao nhiệm vụ tạo ra vỏ bọc bảo vệ cho máy bay ném ngư lôi của thượng úy hải quân Eugene E. Lindsey nếu phát hiện ra tàu sân bay của Nhật Bản. Tuy nhiên chuyến bay của đội không tìm thấy gì và nhóm của Best trở lại Enterprise mà không gặp phải sự cố nào, mặc dù sau đó ông gọi đó "điều tồi tệ nhất... trong số 330 lần bay của mình."[3]

Trận chiến thực sự đầu tiên của ông là vào ngày 1 tháng 2 năm 1942 khi hai lần tham gia bay tấn công vào Quần đảo Marshall. Lúc bình minh, ông chỉ huy đội bay số 2 của VB-6 tấn công toàn diện vào Nhật Bản tại đảo san hô Kwajalein. Đến gần trưa, ông dẫn 8 chiếc SBD tấn công sân bay Taroa trên đảo san hô Maloelap, nhiệm vụ này khiến một máy bay trong đội bị bắn rơi.[4] Ngày 24 tháng 2 năm 1942, Best tham gia vào cuộc tấn công đảo Wake cùng với Tập hợp không lực Enterprise và trong mùng 4 tháng 3 là tấn công đảo Marcus. Sau những cuộc không kích này, Enterprise quay trở lại Trân Châu Cảng và cùng với USS Hornet tham gia trong cuộc không kích Doolittle vào giữa tháng 4. Cả hai tàu sân bay sau đó tăng tốc tiến về phía nam nhưng đã quá trễ để tham chiến trận biển San Hô. Cả hai tàu sân bay này sau đó cùng với chiếc USS Yorktown được điều để chiến đấu tại trận Midway.[5]

Trận Midway

Sau khi báo cáo liên lạc từ máy bay tuần tra Consolidated PBY Catalina từ Midway vào sáng ngày 4 tháng 6 năm 1942, không quân của Enterprise bắt đầu xuất phát vào lúc 7 giờ 6 phút sáng. Dưới sự chỉ huy chung của chỉ huy không quân (CEAG) C. Wade McClusky, với lực lượng tấn công gồm 14 máy bay ném ngư lôi TBD-1 Devastator thuộc phi đoàn ném ngư lôi số 6 (VT-6), 34 máy bay SBD của VB-6 và VS-6, 10 máy bay tiêm kích Grumman F4F Wildcat của phi đội bay tiêm kích số 6 (VF-6). Tuy nhiên, các phi đội trở nên tách biệt và tiếp cận quân Nhật một cách riêng lẻ. Chỉ có các máy bay ném bom bổ nhào di chuyển cùng nhau và đến Nhật Bản vào lúc 9 giờ 55 phút. Đến 10 giờ 22 phút, máy bay ném bom bổ nhào của Enterprise (trừ ba chiếc đã rơi vì sự cố động cơ) bắt đầu tấn công hai tàu sân bay Nhật Bản gần nhất là KagaAkagi.

Đường băng của USS Enterprise trong ngày 15 tháng 5 năm 1942: chiếc SBD đầu tiên là của Best ("B-1") hoặc đó là của CO của VS-6 ("S-1").Một bức ảnh chụp chung của các phi công ném bom bổ nhào của VB-6 từ Enterprise, ba người trong số đó gây thiệt hại cho tàu Akagi. Best ở trung tâm hàng ghế đầu. Hai người khác đã tấn công Akagi cùng với Best là Edwin J. Kroeger (đứng thứ 8 từ bên trái) và Frederick T. Weber (đứng thứ 6 từ bên phải).[6]

Tại thời điểm này, cuộc tấn công trở nên hỗn loạn khi tất cả 31 chiếc SBD còn lại chuyển sang tấn công tàu sân bay Kaga. Phương án tấn công tốt nhất là theo học thuyết máy bay ném bom bổ nhào, trong đó nói rằng phi đội kế sau (VB-6) sẽ tấn công mục tiêu gần hơn (cụ thể ở đây là tàu sân bay Kaga) trong khi phi đội dẫn đầu (VS-6) sẽ tấn công mục tiêu ở xa (cụ thể là tàu sân bay Akagi). Tuy nhiên, McClusky người từng là một phi công chiến đấu trước khi trở thành chỉ huy CEAG dường như không biết gì về điều này và đã quyết định dẫn dắt VS-6 tấn công Kaga. Khi phi đội dẫn đầu tấn công, Best đã nhận ra chuyện gì xảy ra và hướng đến tấn công Akagi. Tuy nhiên, hầu hết VB-6 đã bỏ qua tín hiệu hủy bỏ mà ông ra lệnh và tiếp tục cuộc tấn công Kaga. Chỉ còn lại hai máy bay đồng đội khác, tổng cộng chỉ còn ba máy bay tấn công Akagi.[7]

Ba chiếc SBD đã đồng loạt tấn công vào lúc 10 giờ 26 phút. Quả bom đầu tiên do thượng úy Edwin John Kroeger thả xuống mặt nước đối diện với đài chỉ huy chính của tàu sân bay. Quả bom thứ hai do Best thả đã xuyên qua đường băng máy bay và phát nổ ở nhà chứa máy bay phía trên, ở đó có 18 chiếc máy bay Nakajima B5N đỗ ở đó.[8][9] Quả bom thứ ba được thả bởi thiếu úy Frederick T. Weber đã phát nổ trên mặt nước, gần phía đuôi làm kẹt bánh lái Akagi.[10] Mặc dù chỉ có quả bom của Best thả trúng mục tiêu, nhưng nó va chạm vào nhiên liệu và vật liệu nổ trong boong tàu đủ để phá hủy chiến hạm của Nhật Bản.

Cuối ngày hôm đó, Best tham gia vào cuộc tấn công tàu sân bay còn lại cuối cùng còn lại của Nhật Bản là Hiryū, và là một trong bốn người thả trúng mục tiêu khiến nó bị đắm.[11] Xạ thủ của Best là James Francis Murray tin rằng, ông đã nhìn thấy tia sáng từ quả bom của Best xuyên qua làn khói khi nó thả xuống giữa phía trước tàu Hiryū.[12] Sau trận chiến, Best được trao tặng Huân chương Thập tự Hải quânHuân chương Thập tự Bay xuất sắc.[13] Trích dẫn cho biết, bbất chấp hiểm nguy cao độ từ của lực lượng phòng không tập trung và máy bay tiêm kích mạnh mẽ của đối thủ, thượng úy chỉ huy Best, với quyết định táo bạo và nhiệt thành can cảm, đã dẫn đầu phi đội của mình trong các cuộc tấn công ném bom bổ nhào vào các đơn vị hải quân Nhật Bản. Điều này khiến việc an toàn trở lại khó khăn vì cạn kiệt nhiên liệu có thể xảy ra, nhưng anh đã tấn công địch và xem nhẹ an toàn bản nhân. Sự kiên định và lòng trung thành của anh ta trong nhiệm vụ đã góp phần rất lớn vào sự thành công của lực lượng chúng ta và gìn giữ truyền thống cao nhất của lực lượng Hải quân Hoa Kỳ.[14] Theo Stephen L. Moore, Best có thể chính là "phi công đầu tiên ném bom thành công hai tàu sân bay Nhật Bản chỉ trong một ngày".[12] Xem xét thành tựu đáng nể này, đô đốc Thomas Hinman Moorer và phó đô đốc William D. Houser đã có những nỗ lực nhưng không thành công trong việc truy tặng Huân chương Danh dự cho Best sau khi ông qua đời vào năm 2001.[15]

Xuất ngũ

Ngày 4 tháng 6 năm 1942, là ngày cuối cùng Best bay trong lực lượng Hải quân Hoa Kỳ. Ngay sau khi ông đáp xuống tàu sân bay Enterprise thì đã ho ra máu. Trong hai mươi bốn giờ tiếp theo, bệnh ho ra máu tiếp diễn, sốt 103 °F (39 °C) và được đưa vào bệnh viện quân y Trân Châu Cảng.

Trở lại Trân Châu Cảng, Best được bác sĩ phẫu thuật phi đội kiểm tra. Trong chuyến bay sáng ngày 4 tháng 6 ở độ cao 20.000 ft (6.100 m), một số phi công VB-6 đã gặp khó khăn trong việc cung cấp oxy, vì vậy Best đã ra lệnh giảm độ cao xuống 15.000 ft (4.600 m).[16] Bình thở oxy trên SBD của Best nóng bất thường kéo dài trong quá trình thực hiện nhiệm vụ vào sáng ngày 4 tháng 6. Natri hiđroxit được sử dụng trong máy thở oxy nhằm loại bỏ cacbon điôxít. Nếu thiết bị chứa vật liệu này bị nung nóng bất thường, nó có thể giải phóng khói xút qua mặt nạ oxy của phi công, vì vậy mà Best đã hít phải khói xút. Thỉnh thoảng Best nhiễm lao tiềm ẩn. Khói của xút ăn da hít vào gây ra viêm phổi hít và bị ăn mòn liên tục là một khối u hạt biến thành dạng không hoạt hóa của cơ thể thành quang hoạt, dẫn đến sự tiến triển từ nhiễm lao tiềm ẩn sang bệnh lao.[17][18][19] Best được chuyển từ Bệnh viện Trân Châu Cảng sang bệnh viện đa khoa Fitzsimons tại Aurora, Colorado, nơi ông được điều trị bệnh lao và điều trị tại đó cho đến tháng 9 năm 1943. Năm 1944, ông xuất ngũ với tỉ lệ thương tật 100%.[20]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Richard_Halsey_Best http://www.immf-midway.com/midway_itow_best.html http://cv6.org/1942/midway/default.htm http://cv6.org/ship/logs/action19420201-vb6-1015.h... http://cv6.org/ship/logs/action19420604-vb6.htm http://www.cv6.org/ship/logs/action19420604-vb6.ht... http://www.midway42.org/TheBattle/IJNCarrierDamage... https://valor.militarytimes.com/hero/19777 https://www.reddit.com/r/AskHistorians/comments/dv... https://navy.togetherweserved.com/usn/servlet/tws.... https://books.google.de/books?id=-DpDDwAAQBAJ&lpg=...